CẢM ƠN ĐỜI CỦA MẸ
( TIỂU SỬ)
“Mẹ là hoa, hoa đẹp tuyệt trần,
Mẹ là nước nước nguồn vô tận..”
Cuộc đời đã hóa thân, để cho chúng con gặp Mẹ. Chúng con đã gặp mẹ bao giờ rồi mẹ nhỉ ! Từ lúc trái đất nhân sinh hình thành hay từ lúc có bảy hình hài nhỏ bé trong lòng của mẹ. Ôi kỳ diệu quá, ôi thiêng liêng vô hạn:
“ Nước biển mênh mông không đong đầy tình mẹ,
Mây trời lồng lộng không phủ kín công cha”
Đời của mẹ, giấy mực nào viết ra cho hết. Thời gian thì có đổi, có thay, biển có lúc đầy lúc cạn, sông có khi lở khi bồi nhưng với tình mẹ thì mãi mãi bất tận hiện hữu. Mẹ, sinh năm 1953 tại làng An Bằng, xã Vinh An, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên – Huế. Xuất thân từ một gia đình nông dân ở nông thôn hẻo lánh, vốn nghèo nàn thiếu thốn nhưng với bản tính chịu khó mưu sinh và cầu tiến nên lúc lớn lên làm thân nữ nhi, được cha mẹ ưu tiên cho học nghề nghiệp, tham gia vào các làng nghề của xóm và được Ông bà ngoại tin cậy để chăm lo việc đồng áng, chợ đò. Mẹ thay thế ba anh trai bôn ba, đi làm ăn xa, nuôi nấng hai em của mình. Gia đình ngoại vào thời đó, nghề chính là biển giã. Những ngày biển động, thì Mẹ cùng với Mệ ngoại cùng qua chợ Đa Bạc – Nong Truồi buôn mua hàng nông sản đem về Làng. Do hòan cảnh đất nước “phân ly” hai miền, cuộc sống người dân vào thời bấy giờ gặp muôn vàn khó khăn, cơ cực và lầm than. Sinh mạng con người có thể “ra đi” bất cứ lúc nào vì súng đạn vô tình.
Lúc Mẹ 19 tuổi, Ông bà ngoại cho lập thân với Ba vào khoảng năm 1971. ( ba sinh năm 1947). Về nhà chồng, Mẹ lại tận tụy, theo bà nội buôn tảo bán tần khắp đó đây. Lúc đó nhà nội cũng không kém nghèo đói, con đông. Mẹ phải lấy đôi vai non yếu của mình để gồng gánh thêm cho Ông bà nội về số phận các con của mình bị thiếu ăn, cơ cực. Thời bấy giờ, Làng ở vùng ven biển, biệt lập với Hoàng Thành Huế khỏang 50 -70 km. Quê hương đất cát trắng, sông biển bao bọc hai bề. Hết nạn 1963, sau 1975 Tổ quốc lại một lần nữa bị thương vong hờn tủi, nhiều gia đình chịu cảnh ‘ người còn kẻ mất’, cảnh người người ly hương, khổ sầu. Người còn sống thì phải tạo dựng lại cuộc sống ban đầu. Thời loạn ly đó “áo không có mặt, cơm không đủ ăn”, mền trời chiếu đất.
Với lời thơ của Bùi Giáng:
“ Ngày mai chẳng biết ra sao nữa,
nếu có ra sao cũng chẳng sao.”
Đời sống của gia đình bấp bênh, nay xóm này, mai xóm nọ, phải tránh súng đạn và tìm vùng đất hứa làm ăn. Hồi đó ( 1980-1985) thanh niên, trung niên ở trong làng đều mang gia đình, vợ chồng đi kinh tế mới hoặc phiêu bạc làm ăn. Cha mẹ vì lo lắng và quan tâm đến thân sinh hai bên nên không đành bỏ xứ ra đi. Mẹ thường hay nói “ số nghèo đã nghèo rồi, dù cho đi tới đâu cũng mang chịu thân phận hèn, bạc phận”. Lúc đó mình chưa đủ phước đức hay chưa hiểu gì về đạo hiếu. Thậm chí vào năm 1986, Ông bà ngoại đóng ghe, có ý đem con cháu gửi đi vượt biên, thế mà Ba không đành đi như thế, Mẹ cũng chẳng chịu đi theo cái cảnh “ một mất một còn” của duyên phận trời đất. Ba Mẹ cũng thường chia sẻ : “nên ở lại với quê hương, có đói ăn đói, có no ăn no” đừng lặn lội chân trời mới khi mà bầy con dại ‘ chưa đủ lông đủ cánh’. Thế rồi từ đó cảnh gia trang khốn khó lại chồng lên khốn khổ, bán lưng cho trời, bán sức cho biển. Ngày qua năm lại, ba lênh đênh trên dòng biển cả, mẹ ngược xuôi trên mọi nẻo đường đời.
Ba Mẹ sinh thành có tất cả bảy người con, năm trai hai gái. Đứa con trai út sinh ra vừa tròn mười lăm ngày là cha mất, do tai nạn thuyền nhân (năm1989). Ngày Ba mất đi, ở trong nhà hủ gạo lân cạn, đèn dầu cũng dần tắt hẳn. Bóng dáng thân gầy mòn mỏi, tay bế tay chèo. Nước mắt của Mẹ cũng đông cứng lại qua bao ngày tháng để vật lộn với cảnh bần cùng khốn khổ, con đông của một gia đình hạ lưu nhất vùng. Thế là từ mùa đông giá buốt mà Ba “ra đi”, Mẹ là người thay cha để che chở cho một bầy con dại. Mẹ thật là phi thường. Những việc Mẹ làm cho chúng con không bút nào tả xiết. Hình ảnh Mẹ trong lòng của các con:
“…Nên đứng lặng bên đời, dòng sanh tử
ngắm nhìn Mẹ cho thoả mộng nhân tình
Mẹ có đến đi, lòng con hoài mộng
thiên thu ôi, ta có mặt bên người….”
Chuỗi thời gian làm xói mòn đi tất cả mà những gì mẹ từng yêu và đứng lặng lại để dòng sông trôi qua mà Mẹ không hay biết! Cuộc lữ hành làm thân phận Mẹ tưởng rằng đã xong với biết bao đắng cay tủi hờn với thế gian. Khổ vẫn cứ khổ, nó luôn đeo đẵng suốt cả đời Mẹ. Mẹ luôn mỉm cười và hãnh diện trước cái nghèo, để cho các con nương tựa. Làm chỗ trú ẩn an toàn , khi được bên Mẹ, dù chỉ giây lát thôi. Vào năm 1992, vì cảnh đời quá đỗi bơ vơ, cả một bầy em đang chảy từng dòng nước mắt dài dụa còn Mẹ thì chịu hết nỗi vì làm ăn vất vã lam lũ buôn bán gánh hàng mà chẳng nuôi đủ cho đàn con trẻ. Thế là Anh cả, đã lên đường tìm con đường sống cho mình và tìm tương lai cho cả nhà. Anh cùng với nhóm bạn quyết định ‘ một sống một còn” vượt biển sang nước thứ hai để ‘tỵ nạn đói’ nhưng bất thành, do cửa biên giới đã đóng vào năm 1990. Nên khi trở về lại nước thì bị đi cải tạo. Đầu anh Hai đang còn vấn khăn tang, nhưng lại phải tiếp tục chịu cảnh biệt ly “Con Xa Mẹ” lần thứ hai. Mẹ tiếp tục gánh thêm một gánh khổ nữa. Môt thân Mẹ lại tiếp tục gồng gánh các con thơ. Chị lớn thứ hai, mỗi buổi đi học về phải giúp đỡ thêm cho mẹ gánh hàng ra chợ hay đến bến đò vào ban đêm. Mỗi lần đi, Mẹ lại mang về gióng lương khô đạm bạc. Có hôm Mẹ phải nghỉ bán buôn để gom cơm gói lại ở mo cau, một ít lương thực còn xót lại trong ngày và thuốc men dầu gió để đi bộ, qua mấy lượt đò lên tận Lao Thừa Phủ - Huế để thăm sức khỏe của Anh Hai. Thời đó, Mẹ còn năn nỉ với ban quản lý trại kiểm soát được cho Mẹ gặp Anh lâu hơn, chưa kịp dặn dò gì thì đã hết giờ phép. Mẹ ngồi ngoài hành lang, bậc khóc nức nở, van xin hết người này, đến ông nọ mãn hạn tù sớm hơn cho Anh, được trở về địa phương quê nhà lao động lập thành tích. Như vậy, anh hai có thể vừa chăm em, vừa phụ Mẹ, một chút công việc gia đình. Trong lúc cha mất sớm, để lại cả đàn con bơ vơ. Mẹ mất cả phương hướng, ý chí để sống nhưng rồi dù sao nhờ Phật cũng để mắt thương, nhờ tổ tiên cũng gia hộ, người thân xóm làng tận tình giúp đỡ làm cho Mẹ có thêm nghị lực và khả năng hiến dâng cuộc sống của người phụ nữ để lo chu toàn bổn phận của một người vợ hiền từ, một người dâu lễ phép và một người con gái chân thật để vượt qua mọi chông gai sóng gió giữa đơn độc chao nghiêng bóng sầu.
“Sông trăng lạnh lẽo đầu non,
Ân tình là chỉ hao mòn tháng năm.
Quê hương một thoáng trong tâm,
Người về Cổ độ nghìn năm vẫn buồn”.
Tháng 11 năm 1990: Ôn ngoại qua đời, lúc còn sanh tiền, Ôn rất thương yêu các cháu ngoại mồ côi. Mẹ đã cùng với các Cậu, Dì lo hiếu sự cho vuông tròn cho Ôn
Năm 1992 : Đại gia đình, Họ Tộc cử hành đại lễ cầu siêu, chẩn tế cho vong linh Ba sớm siêu thoát. Trai đàn hai năm đó, được Hòa Thượng Thích Từ Phương, Trụ Trì Tổ Đình Tây Thiên làm pháp sư sám chủ. Thuở đó, ở Làng An Bằng, Trai đàn Bạt độ chẩn tế cũng là lần đầu tiên các tư gia được cử hành.
Năm 1992: Mẹ tiếp nhận năm giới quý báu, (thọ tam quy ngũ giới) với Hòa Thượng Thích Chơn Tế - Tổ đình Tường Vân –Huế.
.
Thế là cuộc đời xoay vòng, đến lúc hồi sinh, mọi nấc thang của đời Mẹ có thể bước tới, mọi khổ đau Mẹ cũng dần chinh phục đối diện. Sống bằng trái tim tan vỡ và hết lòng chung thủy với người chồng quá cố và yêu mến đàn con thơ. Mẹ mẫu mực không ngừng phấn đấu và hy sinh để cải thiện gia đình ấm no, đầy đủ tình thương dành cho các con.
Năm 1996: Mẹ định duyên gả chồng cho người con gái thứ ( Hồ Thị Gái ) với người con rễ cùng Quê đang lập nghiệp tại Hoa Kỳ và Chị đã sang Mỹ đoàn tụ với chồng sau đó.
Năm 1997: Mẹ đi xin cưới hỏi dâu ở làng cho người Anh đầu ( Hồ Thanh).
Năm 1997 - 1998: Sau đó Mẹ đem gửi Thầy Pháp Bảo ra Quảng Trị thọ Quy y làm công quả với Hòa Thượng Thích Thiện Tấn. Thời buổi đó, Hòa Thượng ân sư cũng vừa mới mới xong hạn lưu đày. Chùa Cam Lộ, nNơi thuộc vùng triền núi xa xôi, mọi phương tiện học hành hạn chế. Nên Mẹ muốn xin phép Hòa Thượng cho chú vào Huế đi học thêm thời gian ngắn. Hòa thượng đã hoan hỷ giới thiệu cho chú vào Chùa Thuyền Lâm tiếp tục tu học. Mẹ đã băn khoăn mãi để cho phép chú đi xuất gia, đầu sư với Hòa Thượng Chơn Trí. Mỗi lần từ quê lên thăm chú Mẹ không khỏi xúc động và khuyên lơn chú cố gắng theo chân Qúy ngài, quý huynh đệ cho tốt. Một khi đã tu tập rồi, thì phải nỗ lực tinh tấn lên, đừng bận lòng việc ngoài đời, chi cho phân tâm.
Năm 1998: Bà ngoại tiếp tục qua đời, Mẹ lại mất thêm một người yêu kính, Mệ lúc nào cũng tạo điều kiện, chia sẻ bớt nỗi lo giúp giùm cho Mẹ từ lúc Ba mất. Mệ ngoại có trái tim hiền hậu, bao dung. Những tháng năm trước đó căn nhà tranh , vách lá của Cha Mẹ nằm sau lưng nhà ngoại. Bà ngoại và Mẹ như hai nữ thần thánh thiện không thể thiếu trong đời từ lúc lớn lên cho đến khi trưởng thành.
Năm 2000: Nhân Tưởng niệm 10 năm ngày Ba mất, Mẹ và các anh chị em đã cung thỉnh H.T Thích Chơn Trí, T.T Thích Thông Đạt cùng Tăng Chúng thiết lễ kỳ siêu và cúng dường Trai Tăng tại căn nhà ở xóm làng.
Năm 2001: Mẹ tháp tùng phái đoàn Khuôn hội Phật giáo An Bằng lên Chùa Từ Đàm cử hành lễ viếng, thọ tang Hòa Thượng Thích Thiện Siêu – Phó chủ tịch hội đồng trị sự Trung Ương, Trưởng Ban giáo dục Tăng Ni Trung Ương. Viện trưởng Học Viện Phật Giáo VN tại Huế.
Tháng 06 năm 2002: Người con gái kế út ( Hồ Thị Hòa) xin mẹ sang định cư tại Hoa Kỳ và sau đó vào năm 2005, kết hôn với người gốc Long An cũng đang lập nghiệp tại Mỹ cùng với gia đình.
Năm 2005: Ngày mà Mẹ cảm xúc lớn nhất, chứng kiến Thầy Pháp Bảo tức con trai thứ của Mẹ được thọ đại giới tại Đại Giới Đàn Nguyên Thiều – Tổ Đình Quốc Ân- Huế. Sau khi tấn đàn, thì mới được tham dự vào hàng ngũ của Tăng. Một sự kiện đánh dấu bước Thầy tiến thân, khó phai trong lòng của Mẹ.
Tháng 04 Năm 2005: Mẹ đưa chân Thầy Pháp Bảo, du học theo pháp môn Làng Mai tại Lâm Đồng. Nay Thầy đang tiếp tục tu học tại Thiền Viện Vạn Hạnh – Sài Gòn theo sự cho phép của Ban Quản lý và y chỉ sư của mình . Thầy vào chốn Già lam học viện này, Mẹ rất yên tâm và mong sao con sớm trưởng thành, dõng mảnh tiến bước tâm linh.
Cuối năm 2005: Mẹ và các con xây dựng ngôi nhà mới ở đất Ông nội để dành, đây là căn nhà thứ 2 sau khi Ba mất. Cũng là món quà biểu tượng mà các con Hải ngoại- Việt Nam muốn dâng lên báo đáp một phần nào Ân nghĩa sinh thành đối với hai đấng song thân của mình.
Năm 2006: Mẹ và tất cả gia đình các Cậu, Dì bên ngoại, kiến thiết ngôi Từ Đường để phụng thờ Ôn Mệ Ngoại và ngôi nhà gỗ ba gian cũng làm nơi tôn thờ Tổ tiên.
Năm 2007: Mẹ lại làm cho người con trai thứ 3 ( Hồ Thành) kết hôn với người con dâu xóm Bắc Thượng ngay trong Làng. Vào khoảng năm này, người em trai út ( Nguyễn Tấn Giai) đã về nước thăm chị.
Tháng 04 năm 2007: chuyến hoằng Pháp lần thứ 2 của Phái đoàn Tăng Thân Làng Mai – Tu Viện Bát Nhã tại Huế -Việt Nam. Lần này Mẹ và gia đình hân hạnh tiếp đón Tăng Thân tại làng An Bằng và thọ trai.
Năm 2008: Mẹ đã cho các con đi lập nghiệp, làm ăn, học hành ở T.P Cần Thơ. Nơi đây có gia đình kết nghĩa, làm thân hữu với Thầy Pháp Bảo. Mảnh vườn Cồn Khương cũng có một ngôi Thiền Thất theo mô hình Đại nội, nhà vườn Huế. Đã có lần Mẹ vào thăm viếng Miệt vườn này.
Vào tháng 7 năm 2008: Mẹ đã vinh dự tham dự lễ động thổ, xây tượng khuôn viên Tôn tượng Quán Thế Âm ở bãi biển An Bằng. Một thánh tích hiếm hoi, ngàn năm quê hương mới có công trình, thắng cảnh bề thế, mang tầm vóc giá trị tinh thần và quần chúng cho thập phương bá tánh. Vị trí Thánh tượng được nằm đối diện với biệt phủ Xóm Làng, nơi mà Mẹ nuôi dưỡng các con trưởng thành.
Năm 2009: Mẹ vào Cần Thơ thăm các con, cháu hơn ba tháng. Vào sống với con cái tại Xứ Thủ Phủ Tây Đô – Ninh Kiều, do cảnh vật yên tĩnh, hiền lành và chế độ ăn uống cũng rất đảm bảo nên Sức khỏe của Mẹ khá ổn định. Sau đó Mẹ phải về lo việc cúng Tết ở quê. Cùng năm này, chị Gái, con thứ của Mẹ từ Hoa Kỳ đem 2 cháu trở về thăm quê hương, thăm Mẹ. Từ trước tới giờ Mẹ rất mong các con ở nươc ngoài về Việt Nam để cho Mẹ thăm, vì do giấy tờ trở ngại nên Mẹ vẫn chưa xuất cảnh được. Cho nên Mẹ luôn ước mong “ có ngày đoàn tụ”. Sau những ngày vào thăm các con ở miền xa về lại Làng, thì được người anh trai cả ( Nguyễn Anh Chớ) cũng trở về quê nhà thờ tự Gia tiên và thăm lại Mẹ.
Đầu năm 2010: Mẹ lại có chuyến vào Sài Gòn để thăm người con trai thứ ( Hồ Thành) cùng đi với Mẹ là người cháu nội ( Hồ Văn Thiện). Vào thời gian này Mẹ đưa chân người con út ( Hồ Ty) đi du học tại Canada. Sau đó Mẹ có đến Thiền viện Vạn Hạnh đảnh lễ viếng thăm quan cảnh thiền môn yên tĩnh.
Hơn một tháng mẹ có mặt ở đất Gia Định, Miền Nam Có rất nhiều dấu ấn kỷ niệm. Mẹ đã để lại biết bao nỗi nhớ hoài niệm trong lòng yêu thương: Như hai người emtrai ( Hồ Vinh, Hồ Được ) của Ba tận nước Mỹ xa xôi cũng đã có khoảnh khắc thăm gia đình, thăm chị. Đặc biệt Chú còn đi cùng với Mẹ trên một chuyến bay từ Thành Phố Hồ Chí Minh ra Huế.
Tháng 10 năm 2010: Gia đình đã tổ chức cho Mẹ chuyến đi hành hương cúng dường Thiền Viện Trúc Lâm Bạch Mã. Đến nơi đây, Mẹ rất hạnh phúc, mọi người tưởng chừng leo Mẹ leo không thể nổi. Nhưng cuối cùng rồi, Mẹ cũng lên tới đỉnh núi của Thiền viện. Đỉnh yên ba, tọa lạc một chân trời, non nước hữu tình:
“Dòng máu đỏ trong tim,
Là máu hồng của mẹ.
Dòng máu ấm lặng im,
Nuôi ta từ tấm bé.”.
Năm 2011: Các con của mẹ đang sinh sống, nhà tại Sài gòn đón Mẹ vào ăn tết mà luôn tiện thăm cháu nội (Hồ Khánh Đăng) mới chào đời hôm 03/01/2011. Đã lâu lắm rồi Mẹ mới có nhân duyên đi thăm viếng Chùa Hoằng Pháp- Hóc Môn hôm mồng hai tết. Mẹ đến chiêm bái, lễ Phật, thăm Thầy trụ trì, khung cảnh tịnh độ Chùa thoát tục trang nghiêm. Trong chuyến đi này có Thầy Đồng Nhãn, Thầy Pháp Bảo cùng đi với Mẹ. Những giây phút thong thả đầu xuân, Mẹ ngồi niệm Phật thật lâu ở vườn Quán Thế Âm. Đây cũng là lần đầu tiên thầy Pháp Bảo được sống gần Mẹ, đón xuân, thăm Thiền Viện một năm với nhau kể từ khi thầy đi xuất gia chừ. Thầy cũng mong ước có một dịp trở về quê cùng Mẹ đốt trầm, đón giao thừa.
Đã thật lâu, có hứa đưa Mẹ đi thăm viếng Chùa Vĩnh Nghiêm ở Quận 3 Sài Gòn. Nên cũng trong dịp giao thừa năm nay, Mẹ đã cùng Thầy Pháp Bảo đi đến lạy Phật Vĩnh Nghiêm và Chùa Bửu Đà – đường Cách Mạng Tháng Tám.
Hôm sáng mồng một tết, Mẹ may mắn, có duyên đến vấn an, đảnh lễ sức khỏe Hòa Thượng Thích Minh Châu tại Thiền Viện Vạn Hạnh nơi Thầy Pháp Bảo đang tu học. Mẹ thành kính thăm Hòa Thượng, Mẹ ưa thích ngắm hoa lan và hoa mai trong ngày tết lắm. Sau đó Mẹ lên chánh điện lạy Phật, lạy Tổ và tham quan Học Viện Phật Giáo Việt Nam tại T.P Hồ Chí Minh. Trong đời sống của Mẹ, Mẹ đã làm rất nhiều Phước thiện, việc lành và kính lễ biết bao Chư Tôn Đức Tăng Ni và quý thầy từ Nam chí Bắc và Huế. Mẹ thật có nhiều thiện duyên với hàng Phật tử thức giả đến nhà dùng cơm và uống trà mỗi năm.
Mùi hương trầm vẫn lan tỏa trên vạn lối Mẹ đi, ngào ngạt thơm của buổi đầu năm mới. Trần gian còn nhả hương để đời của Mẹ thanh cao sau bao tháng năm tần tảo mưu sinh. Mẹ có hạt giống tâm linh và niềm tin vào Phật pháp cũng do bà ngoại cũng có trái tim tín tâm với Tam Bảo sâu sắc. Mẹ đã làm xong một thiêng chức hoàn hảo. Chịu đựng mọi sự nhọc nhằn đến lúc tâm trí vắt cạn do gánh nặng cho cả một tương lai gia đình. Giờ đây gần Sáu mươi mùa xuân lăn qua cuộc đời của Mẹ, làm bánh xe thời gian mòn mỏi, khô khan và bỗng dưng muốn dừng:
Thầy Nhất Hạnh có viết cảm niệm:
“ Cô đơn trong bản môn
Hãy ôm niềm hờn tủi
Ru nhẹ lời ca dao
Tuyết hoa rơi đầy núi ”
Thân phận, là cuộc lữ hành cho phép bàn chân bước tới hoặc thối lui. Như những người Mẹ khác trên khắp thế gian, nhưng để tìm ra một bà mẹ có tố chất giàu tình thương và hy sinh đời riêng để phụng sự cho kiếp người thì không phải dễ. Biết mấy biến thiên đổi thay và lay động trong đời sống phàm phu con người. Nhưng Mẹ vẫn giữ mình sắc son với chồng, với con, nề nếp đức hạnh với tổ ấm gia tiên, còn làm người Phật tử thuần túy hiếu đạo. Làm tròn nghĩa cử cao đẹp trong lối sống chuẩn mực về văn hóa, đạo đức làm người. Mẹ thực hành lời Phật dạy:
Không làm các điều ác
Gắng làm các việc lành
Luôn tu tâm, tịnh ý”
“ Sống không đua chen, ích kỷ ”. Mọi duyên bất hòa làm băng hoại thân tâm, tạo nghiệp. Mẹ luôn giữ gìn năm giới quý báu để thăng hoa và vững chãi trước những gì đã mất, sẽ còn. Mẹ biết an trú một lòng thủy chung với cuộc đời. Việc hộ trì tứ sự cho Chúng Tăng. Mẹ còn thường tận tình giúp đỡ người có hoàn cảnh khó khăn. Gương cao chánh tâm hành thiện ngay từ buổi hoàng hôn vô thường.
Thế là công hạnh đã vuông tròn, Mẹ Nguyễn Thị Vỹ, Pháp Danh Nguyên Khai đã ra đi trong những ngày đầu mùa hạ, sen hồng tinh khiết. Để lại bao niềm tiếc thương vô hạn cho thân bằng quyến thuộc gần xa và lời cầu nguyện thiết tha của hàng Giáo Phẩm Tăng Ni, Khuôn Giáo Hội An Bằng.
Tuy báo thân của Mẹ không còn nữa, những công lao nuôi dạy các con và làm tròn bổn phận hiếu đạo đối với bà con nội ngoại hai bên thì đức hạnh của người Phụ nữ sẽ mãi lưu lại trong từng trang ký sự tình người và chuyên chở, nở mãi giữa cõi hồng trần:
Trăm năm một chuyến về thiên cổ,
Tuế nguyệt buồn lay chút bụi hồng.
Hiếu tử thân hữu,
Thị Giả Thư Viện Cổ Pháp
Kính chấp bút.
0 nhận xét