Tín ngưỡng trong Phật giáo




Tín ngưỡng bao hàm lòng tin và sự ngưỡng mộ của con người. Hai từ tín ngưỡng này đối với một số tôn giáo trên thế giới đều đặt để trên cơ sở giáo điều và tín điều, do những giáo sĩ áp đặt lên tâm hồn của tín đồ và bắt phải tin theo. Niềm tin trong Phật pháp thì ngược lại, là người tin vào Phật pháp có quyền tự do được nghi vấn những điều mình tin. Đức Phật luôn luôn khuyến khích người tin vào Phật pháp là trước hết phải dùng lý trí của mình để suy nghiệm, rồi đem ra thực hành, thấy đem lại an vui hạnh phúc cho mình và cho người rồi mới tin. Niềm tin trong Phật pháp không căn cứ trên cơ sở giáo điều và tín điều, mà căn cứ trên lý trí và thực nghiệm. Do vậy niềm tin ấy trở thành hành động trị liệu và chuyển hóa thân tâm cũng như ngoại tại.

Đức Phật dạy rằng, giáo lý của ta là đến để thấy và thực hành, chứ không ở nơi lý luận viễn vông, hay nơi niềm tin mù quáng. Phật pháp là phương pháp thực hành, chứ không phải là một học thuyết, giáo điều. Đây là sự khác biệt giữa Phật giáo và các tôn giáo khác. Các tôn giáo khác chỉ dạy những học thuyết thuộc tín lý và giáo điều, chỉ chấp nhận bởi lòng tin mà không cần lý giải hay chứng nghiệm. Trong Thánh kinh Chúa dạy “Phúc cho những ai không thấy mà tin”. Còn đức Phật thì dạy: “ - Đừng vội tin tưởng những điều gì, dù điều ấy thường được nhiều người nhắc nhở. - Đừng vội tin tưởng những điều gì, dù điều ấy do tập tục của ngàn xưa để lại bảo ta phải tin. - Đừng vội tin tưởng những điều gì, dù điều ấy do bút tích của Thánh nhân để lại bảo ta phải tin. - Đừng vội tin tưởng những điều gì, dù điều ấy do đa số cho là đúng nên ta phải tin. - Đừng vội tin tưởng những điều gì, dù điều ấy do nhà truyền giáo hay mãnh lực thần quyền bảo ta phải tin. *Chúng ta hãy tin những gì do dùng lý trí để suy nghiệm rồi đem áp dụng hành trì, thấy đem lại an lạc và hạnh phúc cho mình, cho người và cho tất cả, thì chính đó là một sự thật hết sức hiển nhiên, các ngươi hãy tín thọ và thực hành theo. Tin ta mà không hiểu ta, chính là bài xích ta vậy.” NGƯỜI PHẬT TỬ TIN NHỮNG GÌ ?

1. Tin Mình Có Khả Năng Làm Cho Mình An Vui Hạnh Phúc Một người sau khi đã tìm hiểu Phật pháp, thì người ấy có khả năng làm cho mình an vui và hạnh phúc, bằng cách tự loại trừ những mầm mống khổ đau ra khỏi thân tâm. Trước hết phải thấy rõ rằng: Đây là khổ, đây là những nguyên nhân đưa đến khổ, đây là sự an vui sau khi loại trừ những mầm mống tạo ra khổ đau, và đây là phương pháp loại trừ khổ đau.

Trong cuộc sống của con người có rất nhiều nổi khổ, nhưng không ngoài hai nổi khổ của thân và tâm. Những thứ làm cho thân khổ phần lớn đều thuộc về vật lý. Những thứ làm cho tâm khổ phần lớn đều thuộc về yếu tố tâm lý. Có những nỗi khổ thuộc về chủ quan là do tự mình đầu độc, như không ý thức được sự tác hại của ma túy, của thuốc lá, của rượu và những phẩm vật có độc tố, sản phẩm có pha chế hóa chất .v.v..cũng như những yếu tố tâm lý không lành mạnh như : gian tham, giận hờn, ganh ghét, nhỏ mọn, mỉa mai, châm thọc, ích kỷ, keo kiết, độc ác, cống cao ngã mạn, thích đấu tranh, thích hơn thua thắng bại, ngộ nhận và mê lầm.v.v...

Nhưng cũng có những nổi khổ thuộc khách quan là do những yếu tố ngoại duyên đưa đến, vì mình thiếu cảnh giác và đề phòng. Khi thấu rõ những nổi thống khổ, chúng ta mới dùng chánh niệm tỉnh giác để quán chiếu thân tâm, nhằm hóa giải và ngăn ngừa những mầm mống tạo nên những nổi thống khổ ấy. Vì vậy, thắp sáng hiện hữu là động cơ ban đầu của pháp quán chiếu. Thấu rõ hiện hữu của thân tâm và ngoại tại, chúng ta mới tìm cách chuyển hóa và giải trừ. Nhờ vào công cụ quán chiếu, chúng ta mới nhận ra chất liệu vô minh (ngu si, không nhận chân được sự thật) trong những sự thống khổ ấy. Giải trừ vô minh là động cơ dẫn đến an vui hạnh phúc, hay giải thoát giác ngộ của một người tin theo Phật.

2.Tin Mình Cũng Có Khả Năng Đem Lại Bình Ổn Cho Ngoại Tại Đức Phật dạy : “Cái này có mặt nên cái kia có mặt, cái này sinh nên cái kia sinh, cái nầy diệt nên cái kia diệt”. Vạn pháp được sinh khởi và chuyển hóa bởi nhiều yếu tố, trong ấy có yếu tố tích cực và tiêu cực của con người. Yếu tố tiêu cực do vô minh(thiếu hiểu biết) chi phối và yếu tố tích cực thì do trí tuệ điều khiển. Chúng ta cũng có thể làm cho thế giới ngoại tại trở nên thanh bình tốt đẹp, hay chiến tranh, hận thù và đau khổ. Hành vi tốt hay xấu, thiện hay ác của từng cá nhân ( biệt nghiệp), và từng cộng đồng (cộng nghiệp) tạo nên an vui hạnh phúc, hay khổ đau cho cuộc sống chung cùng. Nhờ vào pháp quán chiếu nên chúng ta thấy rõ vạn pháp duyên sinh( do nhiều yếu tố liên hệ kết hợp mà thành), chứ không do bàn tay của một đấng nào sắp đặt cả. Vì sao vậy ? Vì nếu có một đấng Thượng Đế toàn trí toàn năng sinh ra tất cả, thì sao Ngài lại ngớ ngẩn tạo ra bao nhiêu nỗi thống khổ cho thế gian này ? Nếu thế thì Ngài hoàn toàn không có tình thương, mà nhân loại rất cần trong cuộc sống tương sinh này, và nhân loại sẽ tìm cách chống lại khổ đau tức chống lại Ngài.

Nhờ vào trí tuệ nên nhận chân được vạn pháp duyên sinh, mới tìm cách tạo ra những duyên tốt, đồng thời biết chuyển hóa những hành vi sai trái, xấu ác của từng cá nhân và cả cộng đồng tức biết chuyển từ hành nghiệp xấu ác sang hành nghiệp tốt lành.

Khi có tuệ giác tương tức bởi yếu tố ở trong nhau và đi vào nhau, chúng ta mới dừng lại những động cơ tạo thành sầu, bi, khổ, ưu, não.

Một cộng nghiệp được xây dựng trên cơ sở lý trí và tình thương, tạo nên cảnh giới an lạc cho mình và người, là lý tưởng nhân bản mà đức Phật chỉ dạy. Thấu rõ yếu tố tương sinh, chúng ta không quay lưng sấp mặt bỏ qua, hay chạy trốn thực tại, không đổ lỗi cho một đấng tạo hóa nào và cũng không van lơn cầu xin ân sủng ở một đấng nào cả. Bởi “Không ai làm cho ai trở nên thánh thiện, cũng không ai làm cho ai trở thành độc ác thấp hèn, mà chính do hành động của ta tự làm cho ta trở nên thánh thiện tốt đẹp, hay tội lỗi thấp hèn mà thôi”.

Đức Phật dạy: “Ngươi chính là nơi nương náu của đời ngươi, mà đừng tìm một chốn dung thân nào khác. Ta như vị chỉ đường, chỉ con đường quang minh chính đại, đi hay không đi chính ở các ngươi. Ta như vị lương y, biết bệnh và cho thuốc, uống hay không uống là nơi bệnh nhân chứ không ở nơi bác sĩ”.

Thấu rõ chuỗi dài nhân quả do mình và người cũng như ngoại tại tác động hình thành, giúp chúng ta loại trừ những niềm tin mù quáng ra khỏi cuộc sống thực hữu của mình. Sống cuộc đời tự chủ, không nô lệ thần quyền, không biếng lười phó thác, cũng không hoang mang sợ sệt trong lúc gặp thất bại, hoạn nạn khổ đau.

3.Tin Vào Tam Bảo Sau khi thực hiện niềm tin đem đến tự lợi và lợi tha, chúng ta mới thấy rõ rằng, tin vào Tam Bảo mới đem lại an lạc và bình ổn cho cuộc sống. Như vậy, quy kính Tam Bảo không phải là tín ngưỡng, mà là thể hiện lòng thành kính của chúng ta đối với đức Phật, cũng như những bậc thầy đáng kính, đã dày công phát kiến chân lý và giảng dạy, trao truyền lại cho chúng ta. Vì vậy cho nên, Phật-Pháp-Tăng cũng được gọi là ba ngôi quý báu nhất trên đời. Trước hết, nhờ tin tưởng vào đức Phật mới gia tâm tìm hiểu lời dạy của Ngài, và bởi gia tâm tìm hiểu những lời giáo huấn của Phật ngang qua Tăng- già (quý thầy Tỳ kheo), chúng ta mới có được niềm tin chân chính. Như vậy, Phật-Pháp-Tăng là ba cột trụ vững chắc cho niềm tin của mình. Một niềm tin được hình thành bởi lý trí và thực nghiệm ngang qua Quy Y Tam Bảo, chứ không nơi lý thuyết trừu tượng, không nơi tín lý tín điều, không nơi tình cảm mua chuộc, không nơi ân sủng ân huệ, cũng không nơi đe dọa khủng bố hay bất cứ một hành động ép buộc nào. Như vậy, niềm tin ấy đồng nghĩa với tự do và tự chủ.

Tóm lại, đó chính là niềm tin trong Phật giáo mà đức Phật chỉ dạy cho nhân loại, giúp cho loài người có một tầm nhìn chân xác qua lăng kính của Trí tuệ và Từ bi. Nơi nào có sự hiểu biết chân thật là nơi ấy không có mầm móng khổ đau, và nơi nào bảo vệ được tình thương thì nơi ấy không có nguyên nhân tạo nên đau khổ. Bi và Trí là đôi cánh rắn chắc của chú chim hạnh phúc. Chú chim có cất cánh bay về chân trời hạnh phúc được hay không là bởi đôi cánh Từ bi và Trí tuệ. Và đạo Phật cũng được gọi là đạo của Từ bi và Trí tuệ là vậy. ./. Sa môn Thích Minh Điền

(Từ Cấp Cô Độc)


Bạn Đã Xem Chưa

0 nhận xét

Đăng Nhận Xét

Copyright © NhocLak.Com .