Nước giếng trong - Hai Nẻo Vào Địa Ngục





Cao Huy Thuần
________________________________________
Tôi học lớp ba trường huyện cách đây hơn nửa thế kỷ. Vốn liếng trí thức , văn chương của chúng tôi thời đó nằm gọn trong Quốc Văn Giáo Khoa Thư. Đây là một bài thơ tôi thuộc lòng từ thời đó đến bây giờ: bài "Lính thú đời xưa". Bài thơ chẳủng hay gì, lại không thấy đề tên tác giả. Không tác giả, có lẽ là ca daọ Mà ca dao thì đáng lẽ phải hay hơn. Nhưng đó là ý kiến của tôi về sau nàỵ Thuở đó, thơ trong Quốc Văn Giáo Khoa Thư phần nhiều là như vậy, chẳng hay, nhưng có vần có điệu, đọc lên cũng thấy thợ. Bài "Lính thú đời xưa" khá dài, chia thành hai phần.

Bài thứ nhất : Lính thú đời xưa.
Ngang lưng thì thắt đai vàng
Đầu đội nón dấu vai mang súng dài.
Một tay thì cắp hỏa mai.
Một tay cắp giáo quan sai xuống thuyền.
Thùng thùng trống đánh ngũ liên.
Bước chân xuống thuyền nước mắt như mưa.

Bên cạnh bài thơ có vẽ hình một người đàn bà nông dân bế đứa con nhỏ, tiễn chồng ra đi. Ngày nay, người ta tiễn nhau ở bến xe, ở nhà ga, ở sân bay. Thuở trước, biệt ly diễn ra trên bến thuyền. Thuyền đi chậm, sông nước mênh mang, nhìn theo không biết bao giờ mới hút bóng. Bước chân xuống thuyền nước mắt như mưa. Nước mắt của ai như mưa? Của người chồng bước chân xuống thuyền? Chắc không phải, vì đàn ông đâu có khóc như vậy! Nhưng cũng có thể người chồng khóc như mưa trong lòng. Khóc như thế, nỗi buồn không khô được, cứ ướt mãi. Thuyền trôi trên nước , người chồng trôi trong nước mắt. Khóc như mưa, chắc phải là người vợ. Người chồng vừa bước chân xuống thuyền thì mưa đã ào ào tuôn trên mắt người vợ đứng trên bờ nhìn theo. Người đi người ở đều ướt sũng nước mưa. Mưa ướt sũng bến đò. Lúc còn nhỏ, đọc câu thơ, tôi bùi ngùi. Lớn lên, hiểu thêm rằng biệt ly là khổ. Lớn lên nữa, già đi, lại chột dạ, thấy mình lúc nào cũng như đang tiễn biệt một cái gì, tiễn một niềm tin bị cuộc đời đánh cắp, tiễn một quê hương bỗng nhiên phũ phàng, tiễn bóng câu qua cửa sổ, tiễn cả chính mình, tiễn mình trong từng phút từng giây. Nhưng đó là chuyện khác. Trở về với bài "Lính thú đời xưa" mà Quốc Văn Giáo Khoa Thư có ghi rõ là "tiếp theo" :

Lính thú đời xưa (tiếp theo)
Ba năm trấn thủ lưu đồn
Ngày thời canh điếm tối dồn việc quan.
Chém tre đẵn gỗ trên ngàn
Hữu thân hữu khổ phàn nàn cùng ai.
Miệng ăn măng trúc măng mai
Những dang cùng nứa biết ai bạn cùng
Nước giếng trong con cá nó vẫy vùng.

Khổ thay là đời lính thú! Đầy ải nơi đèo heo hút gió, quần quật tay chân hết sáng đến tối, anh lính muốn than một tiếng cũng không biết kêu với ai ngoài tre, dang, nứa, điệp điệp trùng trùng. Tre ơi, dang ơi, nứa ơi, có biết chăng tôi đây đang khổ với tấm thân này! Khổ với tấm thân .... Lúc học lớp ba, tôi chưa hiểu có thân là có khổ. Chỉ hiểu nỗi khổ biệt ly. Cho nên biết bùi ngùi với bài thơ thứ nhất mà không rung cảm với bài thơ tiếp theo. Chỉ có một câu làm tôi thắc mắc mãi, từ nhỏ đến lớn, từ trẻ đến già, từ đó đến nay. Câu thơ thật lạ kỳ, như ở đâu bay vào bài thơ lạ hoắc, lãng xẹt. Đó là câu cuối : Nước giếng trong con cá nó vẫy vùng . Tại sao bỗng có con cá vẫy vùng trong giếng ở cuối một bài thơ nói về anh lính thú từ biệt vợ sống đầy ải trên núi rừng? Giữa anh lính với con cá chẳng có một liên hệ gì cả. Cách cấu trúc của câu thơ cũng kỳ quặc : hai câu tám đi tiếp theo nhau : Những dang cùng nứa biết ai bạn cùng Nước giếng trong con cá nó vẫy vùng. Trong một bài thơ lục bát ngày xưa, có khi tác giả phá thể, chấm dứt bài thơ ở câu sáụ Nhưng nếu thế , tại sao lại không chấm dứt như thế này : Giếng trong con cá vẫy vùng Tại sao lại thêm chữ "nó" quái gở vào câu thở Không phải con cá vẫy vùng mà là con cá nó vẫy vùng. Tựa như con cá với nó là hai, có con cá và có nó ở trong giếng đùa nghịch với nhau, nó vẫy vùng nơi con cá, con cá vẫy vùng nơi nó. Quái, tại sao có con cá hạnh phúc như vậy ở đây?. Tôi chịu thua . Mà cũng chẳng ai giải thích được cho tôi. Tôi đố ai giải thích nổi! Câu thơ nhảy vọt từ chuyện khổ qua chuyện vui, không đầu không đuôi, không gốc không ngọn, chẳng nghĩa lý gì cả. Anh lính thú nhớ vợ, mơ về chăn gối ấm êm bên cạnh vợ? Anh lính thú kiệt sức giữa lúc chém tre đẵn gỗ bỗng thấy loé ra trong một cơn mê sảng hình ảnh thanh bình của giếng nước ở quê nhà? Bài thơ quá giản dị, chất phác, không cho phép tôi diễn dịch cao xa. Nhưng câu thơ nằm mãi trong đầu tôi vừa như một hình ảnh êm dịu, vừa như một vũ trụ bí mật quyến rũ, mời mọc, thách thức óc tưởng tượng của tôi. Tôi không tóm được nó, cho nên nó dẫn tôi đi lang thang .

Tôi lang thang trong thế giới Thiền. Đừng bắt tôi giải thích tại sao. Trong Thiền không có tại sao. Nó thế là nó thế. Trong Thiền không có đầu đuôi, khúc chiết, lý luận. Nó đập vỡ lý luận. Đó là thế giới lý tưởng của câu thơ lớp ba mồ côi luận lý. Thế giới của những câu cuối lấc cấc, mẹ gà con vịt. Đừng bắt tôi giải thích ; hãy lang thang với tôi trong dăm ba câu chuyện thiền . Một ông sư hỏi Phong Huyệt: " Người nào không hiểu thì chẳng bao giờ thắc mắc; tại sao vậy?" Phong Huyệt đáp : "Con rùa đi trên đất thì để lại vết chân trong bùn". Một ông sư khác hỏi Triệu Châu : "Muôn vật quy về Một; vậy Một quy về đâu?". Triệu Châu trả lời: "Hôm qua, đến huyện Kinh, ta có may một cái áo nặng bảy cân." Có người hỏi Động Sơn :"Phật là ai ?" Trả lời: "Ba cân vải". Người kia đem câu hỏi của Động Sơn hỏi Trí Môn. Ông này cắt nghĩa: "Một mớ hoa, một mớ lụa". Rồi hỏi lại : - Hiểu chưa? - Dạ chưa hiểu - Tre trúc phương nam, tùnh bách phương bắc. Lại có người đem cùng câu hỏi đá hỏi Hòa Sơn: "Phật là ai?" Trả lời: "Ta biết đánh trống, tùng tùng tùng, cắc cắc tùng". Vui thật là vui. Vui như thế thì hãy đọc thêm vài chuyện nữa.

1
• 2
• 3
• 4
• 5

Hai Nẻo Vào Địa Ngục

Mỗi khi thù ghét một ai đó chúng ta thường nguyền rằng : “Mày chết thế nào cũng vào Địa Ngục” . Có Địa Ngục không ?! Địa Ngục có dễ vào không ?!

Từ vô lượng kiếp trước, khi ấy Địa Tạng Vương Bồ Tát còn là một Thánh Nữ. Khi ấy Thánh Nữ vì lòng hiếu mà xuống Địa Ngục tìm cứu mẹ. Thánh Nữ gặp Quỷ Vương Vô Độc là chúa tể Địa Ngục Vô Gián. Thánh Nữ hỏi Quỷ Vương : “ Tôi phải làm sao để vào được Địa Ngục” , Quỷ Vương trả lời : “Nếu chẳng có Uy Thần tất là do Nghiệp Lực (Kama) , trừ hai sự ấy thì chẳng bao giờ vào được” .

Như thế thật ra Địa Ngục đâu có dễ vào. Hoặc là Thánh Nhân đắc Đạo hoặc là người do nghiệp lực tàn ác mà đọa vào. Hai nẻo vào một chỗ mà thật khác nhau một trời một vực .

Một đàng là Chí Thiện mà vào Địa Ngục ! Một đàng là Chí Ác mà vào Địa Ngục ! Một đàng là vào Địa Ngục để cứu độ chúng sinh ! Một đàng là vì hại chúng sinh mà mở ra Địa Ngục cho mình !

Địa Tạng Vương Bồ Tát thường có hình tượng là một vị Thánh Tăng ngồi trên con Thanh Sư tay cầm gậy Tích Trượng . Nên có trong Kinh Bản Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát có câu : “Rung Tích Trượng mở toang Địa Ngục !” . Tôn giả Mục Kiền Liên cũng thường có hình tượng cầm cây Tích Trượng, vì ngài khi xưa cũng từng vào Địa Ngục để cứu mẹ. Ngài Đường Tam Tạng khi xưa khi nhận phó thác của Quán Thế Âm Bồ Tát cũng được ngài trao cho Tích Trượng dặn rằng : “Cầm gậy Tích Trượng này thì không sợ vào Địa Ngục” . Như vậy rõ ràng cây gậy Tích Trượng này rõ ràng là một Pháp Khí để ra vào Địa Ngục . Tôi cứ thắc mắc mãi điều này ! Cây gậy này có gì khác mà lại lợi hại như vậy.

Đến sau này đọc các tài liệu về Phật Giáo Mật Tông tôi mới được biết hình tượng ở đầu cây Tích Trượng chính là biểu trưng cho Tính Không của Phật Giáo !

Như vậy Tính Không chính là lợi khí để ra vào Địa Ngục an toàn ( Không dính mắc ) , Tính Không là Pháp lợi cứu độ chúng sinh trầm luân trong đau khổ nơi Địa Ngục ! Tính Không là chuyển Phàm thành Thánh .

Địa Ngục là có thật ! nó chẳng do ai tạo ra để đọa đày chúng ta ! Nó là do chính Tâm Thức tích chứa điều xấu xa tạo thành . Địa Ngục đày đọa ta là do ta mở ra ! Địa Ngục đề ta vào cứu độ chúng sinh cũng do chúng ta mở ra ! Hai nẻo cũng vào Địa Ngục mà khác nhau ! Vào vì bất thiện thì không đóng được ! Vào để cứu độ chúng sinh thì phá bỏ Địa Ngục dễ dàng ! Thật giản đơn !


Minh Kiến

Bạn Đã Xem Chưa

0 nhận xét

Đăng Nhận Xét

Copyright © NhocLak.Com .